Lịch sử Không_quân_Hoa_Kỳ

Quá khứ

Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ đã tạo tiền đề cho sự ra đời của Không quân Hoa Kỳ vào năm 1907. Sau một loạt các thay đổi về cách tổ chức, tên gọi và hoàn thành các nhiệm vụ trong suốt khoảng thời gian 40 năm sau đó, Không quân Hoa Kỳ được tách ra thành một quân chủng riêng biệt. Trong chiến tranh thế giới thứ II, gần 68.000 phi công Mỹ đã hy sinh góp phần giành lấy chiến thắng cho quân Đồng minh, chỉ lực lượng bộ binh có số lượng thương vong nhiều hơn số lượng nhập ngũ.[7] Trong thực tế, USAF hầu như hoạt động độc lập trong Quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ II, nhưng các quan chức muốn có một sự độc lập chính thức. Không quân Hoa Kỳ trở thành một quân chủng riêng biệt vào ngày 18 tháng 9 năm 1947 bằng việc thông qua Đạo luật An ninh Quốc gia năm 1947.[8] Đạo luật dùng để thành lập Bộ phận Quân sự Quốc gia Hoa Kỳ (sau này được đổi tên thành Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ năm 1949), bao gồm ba bộ trực thuộc là Bộ Lục quân Hoa Kỳ, Bộ Hải quân Hoa Kỳ và bộ mới là Bộ Không quân Hoa Kỳ.[9] Trước năm 1947, trách nhiệm về không quân được chia sẻ giữa Lục quân Hoa Kỳ (cho các chiến dịch trên bộ), Hải quân Hoa Kỳ (cho các chiến dịch trên biển từ các hàng không mẫu hạm và các thủy phi cơ), và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ (để hỗ trợ không yểm các chiến dịch trên bộ). Nhưng thập niên 40 đã chứng kiến sự thay đổi vượt bậc và là sự bắt đầu cho một kỷ nguyên mới của ngành hàng không, tiêu biểu là phi công Chuck Yeager - người đã vượt qua tốc độ âm thanh bằng chiếc phi cơ X-1 năm 1947.[10]

Các phù hiệu hình tròn mà từng xuất hiện trên các phi cơ quân sự của Hoa Kỳ
1. 5/1917-2/1918 2. 2/1918-8/1919 3. 8/1919-5/1942
4. 5/1942-6/1943 5. 6/1943-9/1943 6. 9/1943-1/1947
7. 1/1947-nay

Các tên gọi trước kia của Không quân Hoa Kỳ là:

  • Bộ phận không gian thuộc Quân đoàn Thông tin Hoa Kỳ (Aeronautical Division, U.S. Signal Corps) (1 tháng 8 năm 1907 đến 18 tháng 7 năm 1914)
  • Bộ phận hàng không thuộc Quân đoàn Thông tin Hoa Kỳ (Aviation Section, U.S. Signal Corps) (18 tháng 7 năm 1914 đến 20 tháng 5 năm 1918)
  • Tiêm kích nổi tiếng P-51 Mustang hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Mang phù hiệu của Quân đoàn Không lực Lục quân Hoa Kỳ (U.S. Army Air Corps)Bộ phận hàng không quân sự (Division of Military Aeronautics) (20 tháng 5 năm 1918 đến 24 tháng 5 năm 1918)
  • Bộ phận Không lực Lục quân Hoa Kỳ (U.S. Army Air Service) (24 tháng 5 năm 1918 đến 2 tháng 7 năm 1926)
  • Quân đoàn Không lực Lục quân Hoa Kỳ (U.S. Army Air Corps) (2 tháng 7 năm 1926 đến 20 tháng 6 năm 1941)
  • Không lực Lục quân Hoa Kỳ (U.S. Army Air Forces) (20 tháng 6 năm 1941 đến 17 tháng 9 năm 1947)

Hiện nay

RQ-170 SENTINEL, loại máy bay tàng hình không người lái tiên tiến nhất không quân Hoa Kỳ hiện nay

Kể từ năm 2005, Không quân Hoa Kỳ đã đặt tập trung mạnh vào việc cải thiện đào tạo quân sự cơ bản (BMT). Các khóa luyện tập đã trở nên dài hơn, cùng với đó là sự xuất hiện của giai đoạn thực nghiệm mô phỏng. Giai đoạn này được gọi là BEAST, là nơi các học viên được thực hành trong một môi trường siêu thực mà họ có thể tích lũy kinh nghiệm như khi được lái một chiếc phi cơ thực sự. Trong khóa huấn luyện này, các giảng viên (MTI) đảm nhiệm vai trò như các cố vấn hoặc lực lượng của đối phương trong các bài huấn luyện.Năm 2007, Không quân Hoa Kỳ gặp phải sự cắt giảm lực lượng vì ngân sách và có kế hoạch giảm lực lượng từ 360.000 quân nhân hiện dịch xuống còn 316.000.[11] Con số lực lượng hiện dịch vào năm 2007 chỉ bằng khoảng 64% lực lượng khi kết thúc Chiến tranh vùng vịnh năm 1991.[12] Tuy nhiên, sự cắt giảm chấm dứt khi quân số giảm đến khoảng 330.000 người vào năm 2008 để đáp ứng nhu cầu cho sứ mệnh.[11] Sự thắt lưng buộc bụng này đã khiến cho số giờ bay huấn luyện cho phi công giảm xuống rất nhiều từ năm 2005[13] và phó tham mưu trưởng đặc trách nhân sự phải điều hành việc kiểm tra đánh giá bay cho các phi công[14].

Ngày 5 tháng 6 năm 2008, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert M. Gates chấp thuận đơn từ chức của cả hai Bộ trưởng Không quân Hoa Kỳ Michael W. Wynne và Tham mưu trưởng Không quân Hoa Kỳ, tướng T. Michael Moseley. Bộ trưởng Quốc phòng Gates thật sự bãi nhiệm cả hai người này vì "những vấn đề có liên quan đến các công tác tiến hành thực thi và tập trung sứ mệnh hạt nhân của Không quân Hoa Kỳ đang bị giảm sút một cách có hệ thống". Việc này theo sau một vụ điều tra về hai sự kiện đáng xấu hổ có liên quan đến việc xử lý bất cẩn vũ khí hạt nhân, và cũng là điểm đỉnh tranh cãi giữa ban lãnh đạo không quân và Gates.[15] Để tập trung hơn vào việc quản lý vũ khí hạt nhân, Không quân Hoa Kỳ đã thiết lập ra bộ tư lệnh hạt nhân chiến đấu toàn cầu của Không quân Hoa Kỳ vào ngày 24 tháng 19 năm 2008.[16]

Ngày 26 tháng 6 năm 2009, không quân đưa ra một chương trình tái tổ chức lực lượng nhằm cắt giảm các phi cơ chiến đấu và chuyển nguồn tài lực sang cho chiến tranh thông tin, bất qui ước và hạt nhân.[17] Ngày 23 tháng 7 năm 2009, Không quân Hoa Kỳ đưa ra chương trình bay của hệ thống phi cơ không người lái trong đó nêu ra chi tiết về các kế hoạch dành cho phi cơ không người lái đến năm 2047.[18] Một phần ba số phi cơ mà Không quân Hoa Kỳ dự định mua trong tương lại là phi cơ không người lái.[19]

Các chương trình không gian

Tên lửa Titan IIC của Không quân Hoa Kỳ được phóng vào ngày 6 tháng 11 năm 1970 mang theo vệ tinh DSP

Không quân Hoa Kỳ hiện xử lý 90% các hoạt động không gian quân sự thông qua Bộ Tư lệnh Không gian và được chỉ định là dịch vụ chính cho không gian. 70% số vệ tinh hiện đang ở trong quỹ đạo thuộc về và được điều khiển bởi Không quân.

Những nhiệm vụ của Không Lực trong không gian được định nghĩa bao gồm:

Tăng cường Không gian Vũ trụ là: Hoạt động hỗ trợ chiến đấu và khả năng nhân lực từ các hệ thống không gian nhằm nâng cao hiệu quả của lực lượng quân đội cũng như hỗ trợ những người đặc biệt, dân sự và ngành thương mại khá, trinh sát, đánh giá tấn công tổng hợp, chỉ huy, kiểm soát và truyền thông, định vị, điều hướng, thời gian và giám sát môi trường.

Ứng dụng Không gian Vũ trụ là: Hoạt động chiến đấu trong, giữa và ngoài không gian để ảnh hưởng đến quá trình và kết quả của cuộc xung đột. Khu vực này bao gồm phòng thủ tên lửa đạn đạo và chiếu quân.

Kiểm soát không gian là: Các hoạt động để đảm bảo quyền tự do hành động trong không gian cho Hoa Kỳ và các đồng minh của họ khi được hướng dẫn, phủ nhận hành động tự nguyện của đối phương trong vũ trụ. (Kiểm soát không gian phòng thủ), và các kiến ​​thức tiên đoán hiện tại, tiên đoán về môi trường không gian và môi trường đang vận hành mà các hoạt động của không quân phụ thuộc vào (nhận thức tình huống trong không gian).

Hỗ trợ không gian là: Các hoạt động để triển khai và duy trì các hệ thống quân sự và tình báo trong vũ trụ. Vùng nhiệm vụ này bao gồm: khởi động và triển khai các phương tiện không gian, duy trì và khởi động các tàu vũ trụ trên quỹ đạo, hẹn giờ và các hoạt động gần, xử lý (bao gồm cả phi quỹ đạo và phục hồi) khả năng không gian và phục hồi lực lượng không gian, nếu cần.

Các cuộc xung đột

Các máy bay của Không quân Hoa Kỳ (USAF) bao gồm các máy bay F-15C,F-15E, F-16A đang bay trên các giếng dầu đang cháy trong chiến dịch Bão táp sa mạc.

Hoa Kỳ đã tham dự nhiều cuộc chiến tranh, xung đột và chiến dịch trong đó đã thực hiện các chiến dịch quân sự từ trên không bao gồm:

Các chiến dịch nhân đạo

F-117 Nighthawkphi cơ cường kích tàng hình đầu tiên trên thế giới (không còn phục vụ kể từ này 22 tháng 4 năm 2008).

Không quân Hoa Kỳ cũng tham gia vào nhiều chiến dịch nhân đạo. Một trong số các chiến dịch chính là:[21]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Không_quân_Hoa_Kỳ http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/M... http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/M... http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/M... http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/P... http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/P... http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/P... http://www.airforcetimes.com/news/2009/07/airforce... http://www.aviationweek.com/aw/generic/story_gener... http://members.gocivilairpatrol.com/media/cms/CAP_... http://books.google.com/books?id=ydRaKBTQ0AgC&pg=P...